Văn hóa xưng hô xưa và nay

- “Xưng hô” là “tự xưng mình và gọi người khác là gì khi nói với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau”. Xưng hô là yêu cầu bắt buộc để thiết lập một cuộc giao tiếp. Như vậy, xưng hô là vấn đề phổ quát của mọi ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt. Vậy xưng hô trong tiếng Việt có gì khác với ngôn ngữ khác và cách thức này có thay đổi gì theo dòng thời gian? Báo Tuyên Quang có buổi trao đổi với PGS.TS Phạm Văn Tình (trong ảnh), Giám đốc Trung tâm Việt Nam học (Viện Việt Nam học - VUSTA) về một số vấn đề liên quan tới câu chuyện xưng hô tiếng Việt xưa và nay.

Phóng viên (P.V): Thưa ông, cần phải hiểu xưng hô và văn hóa xưng hô như thế nào?

PGS. TS Phạm Văn Tình: Xưng hô là một kết hợp từ Hán Việt hai thành tố. Xưng là “tự gọi mình là gì đó khi nói với người khác, biểu thị tính chất mối quan hệ giữa mình với người  ấy” (Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2020). Hô là gọi ai đó bằng một đại từ (hay một từ) thích hợp, giống như bài hát mà thiếu nhi vẫn hát: “Chim gặp bác chào mào, chào bác/Chim gặp cô sơn ca, chào cô/Chim gặp anh chích chòe, chào anh/Chim gặp chị sáo nâu chào chị…” (Lời bài hát Con chim vành khuyên - Hoàng Vân). Chào hỏi và xưng hô là hai nghi thức đầu tiên cho mọi cuộc gặp gỡ. Nếu ta chọn cách xưng hô không thích hợp sẽ gây trở ngại (thậm chí thất bại) cho các cuộc trao đổi. Xưng khiêm hô tôn (xưng thì khiêm nhường, hô thì kính trọng, lịch sự) là nguyên tắc quan trọng, là một nét đẹp làm nên nền tảng của văn hóa xưng hô.

P.V: Ngôn ngữ và văn hóa xưng hô có mối quan hệ như thế nào, thưa Phó Giáo sư?

PGS. TS Phạm Văn Tình: Như tôi đã nói, xưng hô là sự khởi đầu cho giao tiếp. Đầu xuôi thì đuôi lọt. Xưng hô là xác lập vị thế giao tiếp. Khi “ngôi thứ xưng hô” giữa hai người được xác lập, thể hiện đúng, mọi vấn đề trao đổi sẽ thuận lợi, hiệu quả và tốt đẹp. Chàng trai đến nhà cô gái, biết thưa gửi lễ phép, biết gọi các bậc cao niên, bố mẹ và người thân cô gái đúng với vị thế trong gia tộc sẽ được coi là người hiểu biết, lịch duyệt và từng trải. Nói năng thô lỗ, xách mé, thiếu tôn trọng người khác được coi là kém văn hóa, với bất cứ ai cũng dễ bị “mất điểm” đó.

P.V: Như vậy, xưng hô đòi hỏi sự lịch sự, lễ phép?

PGS. TS Phạm Văn Tình: Nguyên tắc chung là thế. Nhưng tùy theo từng hoàn cảnh mà người nói biết thể hiện và thay đổi cách xưng hô theo cung bậc cảm xúc. Có lúc nguyên lý “xưng khiêm hô tôn” bị phá vỡ (thành “xưng tôn hô khiêm”). Ta thấy trong tiểu thuyết Tắt Đèn (Ngô Tất Tố), chị Dậu lúc đầu “xưng con gọi quan” (với người nhà lý trưởng) (Nhà con ốm mới về đêm qua. Mong các quan tha cho.). Sau đó (vì người nhà lý trưởng vẫn tỏ thái độ trấn áp, định bắt anh Dậu) thì chị chuyển “xưng tôi gọi các ông” (Nhà tôi đau yếu, các ông không được phép hành hạ.). Và sau đó, trước hành động quá đáng (xông vào định trói anh Dậu) của mấy người nhà quan, chị Dậu không còn kiêng nể gì nữa mà “xưng tao gọi mày” (Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!). Ta thấy, chị Dậu đã đổi cách xưng hô và phải thế mới phản ánh đúng thái độ và cảm xúc của chị. Ca dao hồi kháng chiến chống Pháp có câu: Chúng ta chỉ một câu này/Thề cùng giặc Pháp có mày không tao/ Lời thề như một nhát dao/ Thề cùng giặc Pháp có tao không mày. Với quân giặc thì phải thế. Nói cho đúng vị thế, nói cho đúng ngữ cảnh, nói sao thể hiện mình là người lịch lãm, có tri thức (biết tôn trọng người khác) chính là một biểu hiện của văn hóa xưng hô

P.V: Thưa Phó Giáo sư, ngôn ngữ xưng hô xưa và nay có sự khác biệt nhiều không?

PGS. TS Phạm Văn Tình: Về cơ bản không khác nhiều, nếu xét từ quan hệ gia tộc. Bởi với mọi gia đình, ngôi thứ (thứ bậc, tôn ti) rất quan trọng. Từ ngôi thứ nhất, chỉ bản thân (ego) sẽ có nhiều cách xưng hô: gọi anh/chị xưng em hoặc gọi em xưng anh/chị. Gọi bố mẹ xưng con. Gọi ông/bà, bác (trai và gái), chú/thím/cậu/mợ… xưng cháu. Hệ thống từ xưng hô gia tộc đã có từ ngàn đời không thay đổi và điều này ảnh hưởng tới cách xưng hô trong xã hội (thường căn cứ vào tuổi tác người đối thoại để chọn lối xưng hô phù hợp). Tuy nhiên, trong xu hướng văn minh, cởi mở, cách xưng hô xã giao đã thay đổi nhiều. Trong giao tiếp xã hội, công sở, người ta chọn cách xưng hô trung hòa (xưng tôi, gọi anh/chị, ông/bà, đồng chí, thủ trưởng/sếp…). Gần đây, cách xưng hô dùng chức danh là khá phổ biến, như “Xin trân trọng mời Giám đốc phát biểu”, “Thưa Thứ trưởng, Thứ trưởng có ý kiến gì về vấn đề này?”, “Bác tài ơi! Cho tôi về Tuyên Quang nhé!”… Việc giao lưu với nước ngoài cũng ảnh hưởng tới xưng hô tiếng Việt. Thời thuộc Pháp, nhiều người vẫn xưng “moa” (moi, tiếng Pháp chỉ “tôi”) và toa (toi: tiếng Pháp, đại từ ngôi thứ hai số ít, như cậu, anh, chị… một cách suồng sã, thân mật). Khi tiếp xúc với tiếng Anh thì các đại từ “I” (tôi) và You (ngôi thứ hai số ít) được sử dụng khá nhiều. Người ta vẫn nói “I love You” thay cho “Anh (em) yêu em (anh)” đó thôi…

P.V: Giới trẻ ngày nay rất dễ ảnh hưởng những thông tin từ các trang mạng xã hội, từ phim ảnh và môi trường sống dẫn đến việc xưng hô không chuẩn mực như bắt chước cách xưng hô trong phim nước ngoài, nói trống không, đã làm lệch chuẩn hay nói cách khác là làm mất dần nét đặc trưng của xưng hô trong văn hóa giao tiếp của người Việt, Phó Giáo sư đánh giá vấn đề này như thế nào?

PGS. TS Phạm Văn Tình: Không cần các trang mạng, giới trẻ cũng có cách xưng hô riêng, như xưng “mình, tớ/tao, đằng này,…” và gọi “cậu/mày, đằng ấy…”. Trong phim “Nhật ký Vàng Anh” hồi nào ta thấy các bạn nữ thường gọi nhau là “ông/bà” xưng “tớ”, “mình”, “người ta”… Các cách xưng hô trong phim Hàn, phim Trung Quốc cũng được giới trẻ sử dụng như một “mốt” thời thượng. Hoặc nhiều bạn quen nói “buông xõng” (nói ngắn cụt tùy hứng, bỏ các từ xưng hô cần thiết). Điều đó thật không nên vì làm mất đi bản sắc, hồn cốt tiếng Việt biểu hiện qua xưng hô.

P.V: Là một người nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy về ngôn ngữ, Phó Giáo sư có lo ngại về ngôn ngữ xưng hô sẽ bị pha tạp nguy cơ bị mai một không?

PGS. TS Phạm Văn Tình: Ngôn ngữ luôn luôn phát triển, biến đổi không ngừng. Xưng hô là một nghi thức ngôn ngữ - văn hóa cũng có biến đổi theo. Nhưng tôi nghĩ sự biến đổi theo hướng tích cực nhiều hơn. Lớp trẻ có nhiều người tùy tiện phá cách, chọn lối nói riêng, trong đó có cách xưng hô thiếu chuẩn mực, lai căng, kệch cỡm (như dùng từ lóng, chêm, xen từ nước ngoài vô lối...). Nhưng số đó không phải là nhiều. Đa số các bạn trẻ thông minh trong công việc, hiểu biết rộng và cũng có ngữ năng tốt, biết chọn lựa cách nói phù hợp. Công này thuộc về gia đình, nhà trường và những thói quen hình thành trong giao tiếp xã hội.

P.V: Và để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, trong đó có ngôn ngữ xưng hô theo Phó Giáo sư, chúng ta cần phải làm gì?

PGS. TS Phạm Văn Tình: Ngôn ngữ là một hệ thống, bao gồm nhiều lĩnh vực (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp). Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt phải được quan tâm ở cả ba bình diện này. Nhưng, từ vựng vẫn luôn là vấn đề đáng quan tâm vì địa hạt này thường hay thay đổi và chịu ảnh hưởng nhiều từ những nhân tố của đời sống. Từ xưng hô là một nhóm từ riêng biệt, liên quan tới các nghi thức giao tiếp (chào hỏi, xưng gọi, nói năng, cám ơn, xin lỗi, khen chê…). Hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt đa dạng, phức tạp, tinh tế. Cần có sự khảo sát, phân loại hệ thống này theo cấu trúc và ngữ nghĩa, để trên cơ sở đó đề xuất cách xưng hô phù hợp (trong xã giao, trong công sở, trong gia đình, trong trường học). Đặc biệt là nên có sự định hướng trong giáo dục ngôn ngữ ở nhà trường. Nhà trường hiện nay đang tồn tại nhiều cặp xưng hô: cô/cháu, thầy - cô/con, thầy - cô/em… Thiết tưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng nên có ý kiến “chuẩn hóa” xưng hô trong học đường.

P.V: Việc giáo dục, dạy dỗ đó phải chăng trước hết là từ mỗi gia đình, trong đó trách nhiệm của người phụ nữ, cụ thể là người mẹ?

PGS. TS Phạm Văn Tình: Gia đình cũng là một môi trường giáo dục ngôn ngữ rất cơ bản. Trẻ em sinh ra, lớn lên chịu sự giáo dục, uốn nắn của bố mẹ, ông bà và những người xung quanh. Tất nhiên, vai trò của phụ nữ (gần nhất là người mẹ) vô cùng quan trọng. Chả thế mà ta vẫn thường nói “tiếng mẹ đẻ”. Tiếng Việt là tiếng mẹ, tiếng bà, tiếng chị… Cũng bởi phụ nữ là người quan sát, thấu hiểu những tâm tư tình cảm của con cháu trong nhà. Người phụ nữ không chỉ nuôi mà còn dạy. Họ chính là những “người thầy” tại gia, vô cùng cần thiết. Trẻ em học nói chính từ người mẹ khi từ nhà ra sân và từ sân ra trường.

P.V: Cảm ơn Phó Giáo sư, Tiến sĩ về cuộc trao đổi này.     

Đoàn Thư (Thực hiện)

Tin cùng chuyên mục